Phần lớn diện tích của ĐBSCL chỉ cao hơn mực nước biển chưa đầy 2 m nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu (BĐKH), trong đó có tác động nước biển dâng. Thêm nữa, các hoạt động như khai thác quá mức nước ngầm, khai thác cát không bền vững cũng như sự phát triển của các nhà máy thủy điện trên thượng nguồn đang đe dọa tương lai của vựa lúa phì nhiêu nhất Đông Nam Á này. Bài viết chỉ ra rằng nếu tiếp tục phát triển với cách thức hiện tại, ĐBSCL sẽ bị nhấn chìm đến 90% diện tích vào năm 2100, tương đương diện tích của đất nước Hà Lan.

Giáo sư Matt Kondolf (Đại học California, Mỹ), tác giả chính của bài viết, nhận định: “ĐBSCL chỉ có thể tồn tại nếu nhận được đủ lượng trầm tích từ thượng nguồn và có dòng chảy đủ để đưa lượng phù sa đó tỏa đi khắp bề mặt đồng bằng, giúp lớp đất bề mặt được bồi đắp với tốc độ bằng hoặc nhanh hơn mức nước biển dâng trên toàn cầu. Tuy nhiên, dòng chảy và trầm tích của sông Mê Kông ngày càng bị đe dọa”.

Đồng tác giả bài bình luận, TS Rafael Schmitt (ĐH Stanford, Mỹ) cho rằng việc thiếu năng lượng tái tạo khiến các quốc gia trong lưu vực sông Mê Kông phát triển nhiều đập thủy điện, nơi phần lớn trầm tích bị giữ lại, mà ít quan tâm đến các tác động ở quy mô toàn hệ thống. Lượng trầm tích ít ỏi đến được hạ nguồn mà có thể khai thác được không đáp ứng đủ nhu cầu về cát. Còn các vấn đề nội tại trong vùng ĐBSCL như việc xây dựng đê cao kiểm soát lũ và thúc đẩy thâm canh trong nông nghiệp đã ngăn không cho phù sa màu mỡ về bồi tụ trên các cánh đồng lúa.

Dòng chảy và trầm tích của vùng ĐBSCL đang bị de dọa vì việc khai thác cát Ảnh: Ngọc Trinh

Ông Marc Goichot – Quản lý Chương trình Nước ngọt của WWF khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đồng tác giả nghiên cứu – cho biết các nhà khoa học đều nhất trí quy mô và mức độ nghiêm trọng của các mối đe dọa trên đối với ĐBSCL đã trở nên hiển nhiên nhưng có thể được ngăn chặn nếu như bảo đảm trong nước sông vẫn có phù sa.

Nhóm nghiên cứu đề ra các giải pháp đã từng được triển khai trên thế giới và có thể gia tăng đáng kể “tuổi thọ” cho ĐBSCL: Hạn chế xây dựng các đập thủy điện có tác động lớn, có thể thay thế các dự án thủy điện đã được quy hoạch bằng các trang trại điện gió và mặt trời khi có thể, nếu không thì khi xây dựng các đập mới phải có các giải pháp chiến lược giảm tác động đến các vùng hạ lưu.

Cùng với đó là: Thiết kế hoặc cải tạo các đập thủy điện để hỗ trợ trầm tích chảy qua; giảm dần và tiến đến dừng khai thác cát lòng sông và quy định nghiêm ngặt đối với tất cả hoạt động khai thác trầm tích, giảm nhu cầu sử dụng cát sông khai thác từ sông Mê Kông bằng các vật liệu xây dựng bền vững và vật liệu tái chế; đánh giá lại tính bền vững của nền nông nghiệp thâm canh ở ĐBSCL; duy trì tính kết nối của các vùng ngập lũ ở đồng bằng thông qua điều chỉnh các công trình hạ tầng nước và thủy lợi; đầu tư vào các giải pháp thuận thiên bảo vệ bờ biển trên quy mô lớn dọc theo vùng duyên hải của đồng bằng.

Việc thực hiện các biện pháp nói trên đòi hỏi sự tham gia của Chính phủ và các tổ chức quốc tế cũng như các tác nhân mới, đặc biệt là từ khu vực tư nhân.

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, ĐBSCL đang sụt lún 1 cm/năm, với tốc độ trung bình lên tới 5,7 cm/năm tại một số địa điểm. Hai tác nhân chính được xác định gây ra sụt lún ở quy mô lớn, cấp khu vực là quá trình nén tự nhiên và khai thác nước ngầm quá mức. 

Ngưng ngay việc khai thác nước ngầm

ThS Kỷ Quang Vinh, nguyên Chánh Văn phòng công tác BĐKH TP Cần Thơ, cho rằng ngoài việc hạn chế khai thác cát và xây đập thủy điện như các giải pháp nêu ra ở trên thì việc giảm khai thác nước ngầm cũng quan trọng không kém. Tại một số nước trên thế giới như Nhật Bản ngưng cấp phép khai thác nước ngầm từ năm 1985 nhưng phải đến năm 2000 thì mực nước ngầm mới chựng lại, không sụt giảm tiếp, từ năm 2000 đến nay, nước ngầm mới bắt đầu dâng lên. Vì vậy, ĐBSCL nên ngưng ngay việc cấp phép khai thác nước ngầm từ bây giờ, nếu không thực hiện thì quá trình sụt lún diễn ra nhanh hơn và ĐBSCL sẽ bị nhấn chìm như dự báo.


Ca Linh