Đó là nhận định chung được các chuyên gia, doanh nghiệp (DN) nêu ra tại tọa đàm “Phát triển bền vững thị trường trái phiếu DN” do Báo Người Lao Động tổ chức ngày 19-4.

Vẫn còn những rủi ro, trục trặc

Phát biểu tại tọa đàm, TS Lê Đạt Chí, Trường ĐH Kinh tế TP HCM, cho biết trước đây, ít thấy DN sử dụng công cụ trái phiếu để huy động vốn nhưng kể từ sau Nghị định 81/2020/NĐ-CP sửa đổi các quy định trước đó, quy mô của thị trường này tăng trưởng mạnh mẽ. Đáng lưu ý, trái phiếu tài trợ cho DN bất động sản chiếm phần lớn trong tổng tài sản của các DN lớn tại Việt Nam. Nhưng rủi ro xuất hiện khi DN sử dụng một số công ty con, công ty liên kết… để huy động vốn qua kênh trái phiếu.

Ở góc độ khác, khoảng 60% người mua trái phiếu DN là ngân hàng (NH) thương mại. Điều này hết sức rủi ro. Do đó, khi triển khai các gói chính sách, gói hỗ trợ kinh tế, nhà nước cần kiểm soát dòng vốn này để tránh hạn chế chảy vào trái phiếu DN, tránh bài học về nợ xấu trong quá khứ. Thực tế, NH Nhà nước cũng đã có văn bản hướng dẫn các tổ chức tín dụng trong việc nắm giữ trái phiếu DN.

“Tại nhiều nước có thị trường tài chính phát triển phải nhắc đến là thị trường nợ. Tuy nhiên, để có một thị trường phát triển các nước cũng phải trải qua rất nhiều quá trình điều chỉnh quy định pháp luật. Do đó, việc điều chỉnh quy phạm pháp luật hiện nay là cần thiết nhằm sửa đổi những rủi ro, chưa hoàn chỉnh trên thị trường” – TS Lê Đạt Chí nói.

Thị trường trái phiếu phát triển lành mạnh sẽ là kênh huy động vốn hiệu quả cho doanh nghiệp, giúp giảm áp lực về vốn cho các tổ chức tín dụng. Ảnh: HOÀNG TRIỀU

Nếu Chính phủ muốn phát triển thị trường nợ như kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế thì khi sửa đổi Nghị định 153 (Nghị định 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu DN riêng lẻ – PV) phải lưu ý ngoài chủ thể là thị trường sơ cấp và người mua trái phiếu phát hành riêng lẻ thì khi công cụ này được giao dịch, mua bán trên thị trường thứ cấp sau đó, ai sẽ mua đi bán lại, rủi ro thế nào, cần phải được làm rõ.

Liên quan đến những bất cập, trục trặc trên thị trường trái phiếu DN thời gian qua, nhiều ý kiến phân tích rủi ro rất lớn là những DN phát hành trái phiếu “3 không” – không tín nhiệm, không bảo lãnh thanh toán, không tài sản bảo đảm.

ThS Nguyễn Anh Vũ, Trường ĐH Ngân hàng TP HCM, thậm chí còn nhấn mạnh có nhiều cái “không” còn đáng lo ngại hơn “3 không” nói trên. Nguyên tắc cho vay và đầu tư trái phiếu, tài sản bảo đảm không phải yếu tố duy nhất hay quan trọng hàng đầu để xem xét mua trái phiếu. Quan trọng nhất là đánh giá được tình hình tài chính, hoạt động của DN.

“Tôi lo ngại ngoài “3 không” thì còn có cái không thứ 4, thứ 5 khác, như không có năng lực tài chính tốt, dòng tiền, phương án kinh doanh không khả thi, dòng vốn không đúng mục đích… Những điều này đôi khi còn đáng lo hơn việc không có tài sản bảo đảm” – ThS Nguyễn Anh Vũ nói.

Theo ông Vũ năm 2021, phát hành trái phiếu DN bằng cả giai đoạn 2011-2018, trong đó 95% là phát hành riêng lẻ, 5% phát hành ra công chúng. Pháp luật hiện nay quy định điều kiện phát hành riêng lẻ luôn thấp hơn phát hành công chúng.

Trước kia, nhà đầu tư cá nhân không quan tâm nhiều đến kênh trái phiếu DN mà chỉ quan tâm kênh cổ phiếu. Vậy tại sao DN lại phát hành riêng lẻ nhiều như vậy trong khi nhà đầu tư cá nhân mua chỉ chiếm chưa đến 9% lượng trái phiếu phát hành?…

Sớm bít những kẽ hở, siết điều kiện phát hành

Ông Huỳnh Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán NH Đông Á, phân tích câu chuyện phát hành riêng lẻ trái phiếu DN hiện nay là tự vay và tự trả nên không có cơ chế kiểm soát dòng vốn sau phát hành. Và sau khi phát hành xong, các kênh như NH, công ty chứng khoán tiếp tục phân phối trái phiếu thông qua kênh bán lẻ của họ, thậm chí chào mời cả những nhà đầu tư đã gửi tiết kiệm.

Lãi suất trái phiếu DN khoảng 12%/năm và tổng chi phí cho kênh này là khoảng 15%/năm với chi phí cho kênh phân phối, bảo lãnh phát hành. Trong khi đó, mức lãi suất tiền gửi hiện nay chỉ khoảng 6%/năm, điều này khiến nhà đầu tư bị hấp dẫn bởi trái phiếu DN…

Dù vậy, đang có kẽ hở mà các định chế tài chính, các nhà đầu tư chuyên nghiệp mua trái phiếu riêng lẻ sau đó phân phối lại cho nhà đầu tư cá nhân. Do đó, cần quy định lại để kiểm soát điều kiện phát hành trái phiếu, nếu không các tập đoàn đều không đứng ra phát hành mà chỉ sử dụng công ty con, là hình thức mượn kẽ hở của pháp luật.

PGS-TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế, cũng nhìn nhận ở nhiều quốc gia, việc không cần báo cáo tài chính, chứng minh tài sản là bình thường nhưng với thị trường non trẻ như Việt Nam thì điều này chưa phù hợp. Ngay cả việc xem xét số lượng phát hành trái phiếu hiện cũng không đến nơi đến chốn, quy định vốn vay trên vốn chủ sở hữu cần phù hợp để bảo đảm khả năng trả nợ.

Việc các NH đứng ra mua trái phiếu DN chiếm tỉ trọng lớn cũng là vấn đề nghiêm trọng. Đó có thể là tình trạng NH giúp DN phát hành trái phiếu để “đảo nợ”. Còn có hiện tượng mua bán lòng vòng, gần như NH cũng không quản lý được. Công ty con mới thành lập và lượng vốn rất bé cũng tham gia phát hành trái phiếu.

Chủ thể mua trái phiếu không chú ý đến khả năng tài chính, hấp thụ, rõ ràng đã làm lu mờ hình ảnh DN phát hành. “Việc giám sát quá trình sử dụng vốn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, có nhiều kẽ hở cần được bịt kín để làm sao tạo điều kiện cho thị trường trái phiếu DN trở thành kênh dẫn vốn quan trọng, an toàn của nền kinh tế” – PGS-TS Đinh Trọng Thịnh nói.

Để thị trường trái phiếu phát triển lành mạnh, các chuyên gia và DN tham gia tọa đàm đều nhìn nhận cần bộ phận quan trọng là các tổ chức đánh giá, xếp hạng tín nhiệm DN, để các nhà đầu tư có thông tin, lượng hóa được rủi ro khi quyết định mua trái phiếu của DN đó.

Ông Phùng Xuân Minh, Tổng Giám đốc Công ty CP Sài Gòn Phát Thịnh Rating (Saigon Rating), cho rằng hiện thị trường trái phiếu DN cần sẵn sàng 3 chủ thể quan trọng đáp ứng được nhu cầu: nhà nước định hướng quản lý, tiền kiểm là khâu quan trọng; minh bạch thông tin của tổ chức xếp hạng tín nhiệm; sự tuân thủ của các chủ thể trên thị trường (nhà phát hành, tổ chức xếp hạng…). Và nhà nước cần có cơ chế để tạo điều kiện cho chủ thể tham gia thị trường có nhu cầu phát triển, nâng cao văn hóa xếp hạng tín nhiệm. Việc góp ý cải thiện chất lượng, hiệu quả của xây dựng luật hiện nay cũng là điều rất quan trọng.

Trong khi đó, ông Trần Huy Doãn, Phó Phòng Đầu tư Công ty Chứng khoán ACBS, kiến nghị để thị trường trái phiếu DN phát triển bền vững, cần tạo ra những nhà đầu tư trái phiếu hùng mạnh mà những quốc gia tiên tiến đã làm được. Ở Việt Nam, các quỹ BHYT và quỹ BHXH chủ yếu dùng nguồn vốn huy động được gửi tiết kiệm.

Do đó, có thể đề xuất chính sách để đưa các quỹ đầu tư này tham gia vào thị trường trái phiếu, tiến tới nghiên cứu đầu tư cổ phiếu… Từ đó, định hướng cho nhà đầu tư cá nhân tham gia vào các quỹ này. Việc này cũng góp phần nắn dòng tiền gửi tiết kiệm của người dân, thay vì chỉ gửi ngắn hạn 3-6-12 tháng, có thể mạnh dạn gửi tới 3-5 năm.

Đơn vị đồng hành:


NHÓM PHÓNG VIÊN